Friday, July 13, 2007

nghị quyết số 1481, lên án chủ nghĩa cộng sản là tội ác chống nhân loại

Nghị Quyết 1481 Và Việt Nam
(VNN) Trần Gia Phụng

Ngày 25-1-2006, tại Strasbourg, một thành phố miền đông bắc nước Pháp, Quốc hội Âu Châu, với đa số áp đảo, 99 phiếu thuận, 42 phiếu chống, đã đưa ra nghị quyết số 1481, lên án chủ nghĩa cộng sản là tội ác chống nhân loại, và các chế độ toàn trị cộng sản đã vi phạm nhân quyền tập thể.

Vấn đề đầu tiên đáng chú ý là hiện nay không còn nước nào theo chế độ toàn trị cộng sản ở Âu Châu, nhưng tại sao Quốc hội Âu Châu lại lên án chủ nghĩa và chế độ cộng sản? Có thể có hai khả năng: Hoặc Quốc hội Âu Châu lo ngại và muốn chận đứng chế độ toàn trị cộng sản sẽ tái sinh ở một số nước Đông Âu vì những khó khăn kinh tế và do những tổ chức hậu cộng sản đang hoạt động mạnh ở Đông Âu? Hoặc Quốc hội Âu Châu muốn tiếp tay với Hoa Kỳ trong phong trào dân chủ hóa toàn cầu, giải thể các chế độ cộng sản còn lại trên thế giới?

Điều 2 của nghị quyết viết: "Những chế độ toàn trị cộng sản từng cai trị ở Trung và Đông Âu trong thế kỷ qua, và hiện vẫn còn cầm quyền ở vài nước trên thế giới, tất cả (không ngoại trừ) biểu thị chân tướng của sựĩ vi phạm nhân quyền tập thể. Những vi phạm nầy khác nhau tùy theo nền văn hóa, quốc gia và giai đoạn lịch sử, bao gồm cả những cuộc ám sát và xử tử cá nhân hay tập thể, gây chết chóc trong các trại tập trung, cho chết đói, đày ải, tra tấn, nô lệ lao động, và những hình thức khác về khủng bố thể xác tập thể, ngược đãi vì chủng tộc hay tôn giáo, vi phạm các quyền tự do lương tâm, tư tưởng và phát biểu, tự do báo chí và cả không đa nguyên chính trị." (Nguyên văn: The totalitarian communist regimes which ruled in Central and Eastern Europe in the last century, and which are still in power in several countries in the world, have been, without exception, characterised by massive violations of human rights. The violations have differed depending on the culture, country and the historical period and have included individual and collective assassinations and executions, death in concentration camps, starvation, deportations, torture, slave labour and other forms of mass physical terror, persecution on ethnic or religious base, violation of freedom of conscience, thought and expression, of freedom of press, and also lack of political pluralism.)

Điều 9 của nghị quyết nhấn mạnh thêm một lần nữa: "Các chế độ toàn trị cộng sản vẫn còn hoạt động tại một số quốc gia trên thế giới và vẫn tiếp tục gây tội ác. Quan điểm về quyền lợi quốc gia không thể được dùng để ngăn chận sự chỉ trích thích đáng đối với các chế độ toàn trị cộng sản hiện nay. Quốc Hội mạnh mẽ lên án tất cả các vi phạm nhân quyền của họ." (Totalitarian communist regimes are still active in some countries of the world and crimes continue to be committed. National interest perceptions should not prevent countries from adequate criticism of present totalitarian communist regimes. The Assembly strongly condemns all those violations of human rights.)

Rõ ràng cả hai điều nầy không phải chỉ nhắm vào những chế độ toàn trị cộng sản đã bị khai tử ở Đông Âu, mà còn đề cập đến các chế độ toàn trị cộng sản hiện còn lại trên thế giới. Đó là Trung Hoa, Việt Nam, Bắc Hàn, Cuba. Các nước nầy đều nằm ngoài Âu Châu và dĩ nhiên không có đại biểu trong Quốc hội Âu Châu.

Chắc chắn phải có những tài liệu cụ thể trong tay, Quốc hội Âu Châu mới quyết đoán như trên. Sự quyết đoán nầy đụng chạm đến Việt Nam. Nói theo tục ngữ chúng ta, "có tật giật mình", nên báo Nhân Dân ngày 27-1-2006 đăng bài "Một nghị quyết sai trái" của Hoàng Liên, có đoạn viết: "Ngày 25-1, Đại hội đồng Nghị viện Hội đồng châu Âu (Pace) đã thông qua cái gọi là nghị quyết số 1481 lên án những hành vi vi phạm nhân quyền của các chế độ cộng sản. (!) Đây là một nghị quyết hoàn toàn sai trái..."

Báo Nhân Dân ở Hà Nội vội vàng lên tiếng chống đối nghị quyết 1481 vì chế độ cộng sản hiện nay ở trong nước rất lo ngại ảnh hưởng của nghị quyết nầy, nhất là điều 3 và điều 5 sau đây.

Điều 3 viết: "Những tội ác được biện minh nhân danh chủ thuyết đấu tranh giai cấp và nguyên tắc độc tài vô sản. Sự giải thích hai nguyên tắc trên đã hợp thức hóa việc "thủ tiêu" những người bị cho là có hại cho sự xây dựng một xã hội mới và do đó, bị xem là kẻ thù của các chế độ toàn trị cộng sản. Một số lớn các nạn nhân chính là công dân của các nước đó. Tiêu biểu nhất là các dân tộc của nước Liên Xô cũ với số nạn nhân đông hơn rất nhiều so với các dân tộc khác." (Nguyên văn: The crimes were justified in the name of the class struggle theory and the principle of dictatorship of the proletariat. The interpretation of both principles legitimised the "elimination" of people who were considered harmful to the construction of a new society and, as such, enemies of the totalitarian communist regimes. A vast number of victims in every country concerned were its own nationals. It was the case particularly of peoples of the former USSR who by far outnumbered other peoples in terms of the number of victims.)

Điều 5 viết: "Sự sụp đổ của những chế độ toàn trị cộng sản ở Trung và Đông Âu không được theo dõi trong mọi trường hợp qua một cuộc điều tra quốc tế về các tội ác do chúng đã gây ra. Hơn nữa, tác giả của những tội ác nầy chưa hề bị đưa ra xét xử trước cộng đồng quốc tế, như những tội ác kinh khủng do Đức Quốc xã gây ra." (Nguyên văn: The fall of totalitarian communist regimes in Central and Eastern Europe has not been followed in all cases by an international investigation of the crimes committed by them. Moreover, the authors of these crimes have not been brought to trial by the international community, as was the case with the horrible crimes committed by National Socialism (nazism).)

Theo các điều trên đây, có hai vấn đề sẽ được đặt ra với Việt Nam. Thứ nhất, từ trước đến nay, chỉ có người Việt Nam, nạn nhân của chế độ cộng sản Việt Nam, lên tiếng tố cáo những tội ác của chế độ nầy. Cũng có một số tác giả ngoại quốc lên tiếng về nạn độc tài toàn trị của Việt Nam, nhưng chỉ lẻ tẻ vài người. Nay là lần đầu tiên, một tập thể lớn lao, Quốc hội Âu Châu, nơi tập trung những đại biểu cho hầu hết các nước Âu Châu, đã lên án chế độ cộng sản toàn trị là chế độ vi phạm nhân quyền tập thể.

Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) hiện đang theo chế độ toàn trị cộng sản, và thực sự chế độ nầy đã vi phạm nhân quyền tập thể một cách hệ thống từ khi đảng cộng sản nổi lên năm 1945 cho đến ngày nay. Do đó, chế độ nầy khó tránh khỏi sự lên án quốc tế trong một ngày gần đây.

Thứ hai, cũng theo Quốc hội Âu Châu, tội ác của các chế độ toàn trị cần phải được nghiên cứu đầy đủ và tác giả gây ra các tội ác nầy cần được đưa ra tòa án quốc tế xét xử, như trước đây đã từng xét xử Đức Quốc Xã ở Nuremberg. Cho đến nay, tuy chế độ cộng sản Việt Nam (CSVN) chưa được nghiên cứu đầy đủ, nhưng tài liệu của đảng CSVN hãnh diện cho biết ngưới du nhập chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam và thành lập đảng CSVN chính là Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh và CSVN đã chủ trương những cuộc đàn áp tập thể, những vụ thảm sát quy mô kéo dài trong nhiều năm, trong Cải cách ruộng đất ở Bắc Việt Nam từ 1949 đến 1956, trong vụ Nhân văn Giai phẩm năm 1956 ở Hà Nội, trong vụ Tết Mậu Thân (1968) ở Nam Việt Nam, những trại tập trung cải tạo sau năm 1975... Cho đến ngày nay, tại Việt Nam chưa có tự do báo chí, không có một tờ báo tư nhân, chưa có tự do tư tưởng, chưa có tự do tôn giáo... Như thế, Hồ Chí Minh và CSVN chính là đối tượng cần được đưa ra xét xử trước tòa án quốc tế.

Hồ Chí Minh đã từng đi qua nhiều nước trên thế giới, đến Paris hoạt động với các ông Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, gia nhập đảng Xã Hội Pháp, rồi đổi qua đảng Cộng Sản Pháp, mới đến Liên Xô, nghĩa là Hồ Chí Minh gia nhập đảng Cộng Sản có ý thức, có tính toán, chứ không phải tình cờ mà theo, hay bị bắt buộc phải theo.

Trước Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu đã dự tính nhờ đến Liên Xô giúp đỡ. Trong sách Tự phán hay Phan Bội Châu niên biểu, Phan Bội Châu kể rằng khi tiếp xúc với Tòa Đại sứ Liên Xô ở Bắc Kinh năm 1920, ông ngỏ ý muốn nhờ đưa thanh niên Việt Nam sang du học Liên Xô. Nhân viên Tòa đại sứ Liên Xô trả lời rằng Liên Xô rất hoan nghênh và chịu mọi phí tổn để đưa du học sinh sang Liên Xô. Tuy nhiên du học sinh Việt Nam phải quyết tâm thực hiện những việc sau đây: tin theo chủ nghĩa cộng sản, học thành tài về nước phải tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản và làm những sự nghiệp cách mạng. Nghe thế, Phan Bội Châu liền tránh mặt, vì ông không chấp nhận những điều kiện của Liên Xô.

Trong hồi ký của mình, Phan Bội Châu chỉ nói rằng vì không biết ngoại ngữ nên ông không tiếp tục liên lạc với Tòa đại sứ Liên Xô ở Bắc Kinh. Thật ra, đây là một cách nói xã giao, chứ sau đó, khi trả lời phỏng vấn của Maurice Detour, báo L'Effort, Hà Nội, Phan Bội Châu nhận định: "Hô hào giải phóng giai cấp đấu tranh ở xứ nầy là một việc cực ngu! Những người thức thời không bao giờ làm như thế." (Báo Tràng An số ra ngày 7-10-1938.) Như thế, chính Phan Bội Châu rất sáng suốt tiên liệu chủ nghĩa cộng sản không thể giải quyết vấn đề Việt Nam, và có thể làm cho dân tộc Việt Nam thêm trầm luân khổ ải. Lúc đó, chắc chắn Phan Bội Châu đã biết Hồ Chí Minh theo chủ nghĩa cộng sản. Là một nhà Nho khiêm cung, Phan Bội Châu không trực tiếp lên án Hồ Chí Minh, nhưng câu nói của Phan Bội Châu trên đây đã mặc nhiên nhắn với Hồ Chí Minh, lúc đó đang quanh quẩn đâu đó ở Trung Hoa, là ông Hồ đang theo đuổi một công việc "cực ngu" (tức hết sức ngu xuẩn), và cụ Phan khuyên ông Hồ không nên làm như thế.

Đáng chú ý là trước khi nhập cảng lý thuyết Mác-xít vào Việt Nam, Hồ Chí Minh đã từng sinh sống hai lần tại Liên Xô. Lần thứ nhất, ông đến Liên Xô vào khoảng cuối năm 1923. Lúc đó nền kinh tế Liên Xô đã suy sụp, dân tình đói khổ. Cuối năm 1924, ông Hồ qua Trung Hoa. Khoảng cuối năm 1933 hoặc đầu năm 1934, ông trở lui Liên Xô và sống tại đây cho đến tháng 10-1938, lại trở qua Trung Hoa lần nữa. Hai lần sống ở Liên Xô trong thời gian tổng cộng khoảng 5 năm, đủ cho Hồ Chí Minh thấy rõ chính sách độc tài với nền kinh tế chỉ huy triệt để bằng những kế hoạch ngũ niên của đảng CSLX, đã làm cho dân Nga đói kém cùng cực. Tại Liên Xô, nạn đói lần thứ nhất xảy ra vào các năn 1921-1922 giết mất 5 triệu người, nạn đói lần thứ nhì xảy ra vào các năm 1932-1933 làm cho 6 triệu người chết. Chắc chắn Hồ Chí Minh biết rõ điều nầy vì ông có mặt tại Liên Xô trong khoảng thời gian trên. Tuy biết vậy, Hồ Chí Minh vẫn cố tình làm tay sai cho Liên Xô, nhập cảng vào Việt Nam loại lý thuyết chỉ làm hại cho dân tộc, mà ngày nay Quốc hội Âu Châu mới lên án.

Có một nhân vật đã theo Hồ Chí Minh và đảng CSVN trong một thời gian dài, lên đến cấp bậc khá cao trong hệ thống cộng sản, ông Bùi Tín, cựu đại tá quân đội CSVN, cựu Phó tổng biên tập báo Nhân Dân, đã viết rằng: "... Nếu như hồi ấy đường lối đấu tranh đại loại như của cụ Phan [Phan Châu Trinh] đề xướng được chấp nhận và thành hiện thực thì đất nước ta rất có thể khác hẳn hiện nay, vừa có độc lập thống nhất, có dân chủ và phát triển, có thể tránh được chiến tranh..." (Bùi Tín, Mặt thật, USA: SAIGON Press, USA, 1993, tr. 102.) Như thế có nghĩa là dân tộc Việt Nam có thể có những chọn lựa chính trị khác, nếu không bị Hồ Chí Minh và CSVN lừa phỉnh, lợi dụng lòng yêu nước để mở cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước, rồi Hồ Chí Minh và CSVN áp đặt dân chúng Việt Nam dưới chế độ cộng sản toàn trị, độc đảng, bóc lột, phá hoại, đầy ải và bần cùng hóa nhân dân một cách có hệ thống, có bài bản.

Ngoài ra, nếu lúc đó Hồ Chí Minh xem chủ nghĩa cộng sản là một phương tiện hay một công cụ để chống thực dân Pháp, thì sau khi Pháp về nước, phương tiện hay công cụ cộng sản không còn cần thiết nữa, tại sao Hồ Chí Minh không thay đổi phương tiện để xây dựng đất nước, mà lại tiếp tục sử dụng phương tiện đó để đày đọa dân tộc Việt Nam mãi cho đến ngày nay, tiêu diệt biết bao nhiêu nhân tài đất nước, phá huỷ biết bao nhiêu tài sản quốc gia? Ngày nay, ba mươi năm sau chiến tranh, mức thâu nhập trung bình tính theo đầu người Việt Nam năm 2004 chỉ khoảng bằng 2/3 của mức nghèo đói do Liên Hiệp Quốc quy định là 735 Mỹ kim. Ở trong nước, hiện chưa có tự do ngôn luận, báo chí, chính trị, tư tưởng, tôn giáo nghĩa là chưa có tự do gì cả. Những thay đổi biểu kiến hào nhoáng ở các thành phố Việt Nam chỉ là lớp son bên ngoài, không thể che đậy nỗi cùng cực ở nông thôn.

Chủ nghĩa Mác-xít và chế độ toàn trị cộng sản đã bị nghị quyết 1481 ở Âu Châu lên án là tội lỗi của nhân loại. Thật mỉa mai, hiện nay chủ nghĩa Mác-xít lại là nền tảng tư tưởng của chế độ trong nước Việt Nam. Trong quá khứ, tại Đại hội 2 của đảng CS vào tháng 2 năm 1951 ở Tuyên Quang để đưa đảng CS ra hoạt động công khai trở lại với danh xưng mới là đảng Lao Động, Hồ Chí Minh phát biểu: "Về lý luận, đảng Lao Động Việt Nam theo chủ nghĩa Mác-Lênin...lấy tư tưởng Mao Trạch Đông làm kim chỉ nam." (Nguyễn Văn Trấn, Viết cho Mẹ và Quốc hội, Nxb. Văn Nghệ, tr. 150.) Hiện nay, điều 4 chương 1 của hiến pháp của chế độ CSVN xác định rằng: "Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của đảng hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật." Đồ phế thải của Nga (hậu thân của Liên Xô), nay bị Quốc hội Âu Châu lên án là tội đồ của nhân lọai, lại được chế độ Việt Nam hiện nay đưa lên hàng quốc bảo là hiến pháp của CHXHCNVN.

Như thế, nghị quyết số 1481 ngày 25-1-2006, tuy là do Quốc hội Âu Châu đưa ra tại Âu Châu, nhưng là một bản án "treo" đối với các nước theo chế độ toàn trị cộng sản còn lại trên thế giới. Trong các nước nầy, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa là một cường quốc đang lên, thách thức cả Hoa Kỳ lẫn Liên hiệp Âu Châu, và nhất là CHNDTH đã lọt vào WTO trước khi có nghị quyết nầy, nên bản án treo của Quốc hội Âu Châu ít ảnh hưởng đến CHNDTH. Ngược lại, đối với Việt Nam, bản án treo nầy chắc chắn sẽ có một tầm ảnh hưởng nào đó, vì Việt Nam đang cố gắng cải thiện bộ mặt chính trị để tìm cách gia nhập vào Tổ chức Mậu dịch Thế giới (WTO).

Phải chăng châu Âu ngầm nhắn nhủ với Việt Nam muốn nhanh chóng gia nhập WTO, thì chẳng những phải thay đổi luật lệ, cải tổ kinh tế, mà còn phải bãi bỏ chế độ toàn trị cộng sản và bỏ luôn điều 4 hiến pháp? Điều nầy khó được CSVN chấp nhận, nhưng nếu không đi theo dòng sống dân chủ thế giới, thì Việt Nam lại khó vào WTO. Đây là một vấn đề hết sức tế nhị hứa hẹn sẽ còn nhiều tranh luận gây cấn trong những ngày sắp đến.

Như thế, nghị quyết 1481 của Quốc hội Âu Châu ngày 25-1-2006 chẳng những là một bước tiến mới trong tiến trình dân chủ hóa toàn cầu, và chắc chắn cũng là một bước tiến lớn lao góp phần tăng tốc tiến trình dân chủ hóa Việt Nam.

TRẦN GIA PHụNG
(Toronto, Tết Bính Tuất)
http://www.vnn-news.com/article.php3?id_article=1806

Friday, July 06, 2007

Cần xét lại lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam

Mối liên quan giữa HCM, Đảng CSVN và Đệ Tam Quốc Tế

Mối liên quan giữa HCM, Đảng CSVN và Đệ Tam Quốc Tế
Tôn Thất Thiện

Cần xét lại lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam

Trong thời gian gần đây, có người đề xướng xét lại lịch sử của Việt Nam dưới tất cả các khía cạnh của nó, một cách gắt gao, "không khoan nhượng".

Ý niệm "không khoan nhượng" gồm có hai phần :

1. Sẵn sàng gạt sang một bên tất cả những huyền thoại, tiên kiến, định kiến, thành kiến, ảo tưởng, mơ mộng, dù là đẹp đẽ, đáng qúy, đáng tôn, đáng kính đến đâu ;

2. Rà soát, kiểm tra lại tất cả các sự kiện một cách kỹ càng, và phân tách các vấn đề một cách vô tư, khoa học để đi đến những kết luận hoàn toàn vững chắc, hợp với thực tại và với lô-gích
.

Đề xướng trên đây rất hợp thời.

Một trong những vấn đề của lịch sử Việt Nam cần được xét lại lúc này liên quan đến chế độ cộng sản. Vấn đề này cần được xét lại vì, trong mấy thập niên qua, các cơ quan truyền tin, ấn loát bị những thế lực "tiến bộ", thiên cộng, với sự hỗ trợ của bộ máy tuyên truyền quy mô của các cường quốc cộng sản, đã chi phối dư luận và tô vẽ ông Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam như là những phần tử "quốc gia" Việt Nam, và tình trạng nước Việt Nam và dân Việt Nam chỉ có thể cải thiện được nếu họ đắc thắng và nắm được quyền trên toàn lãnh thổ Việt Nam.

Năm 1975, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã thắng và mở rộng quyền hành của họ trên toàn cõi Việt Nam. Nhưng trong 30 năm qua, tình hình không đuợc như những kẻ đánh bóng cộng sản đã xác quyết. Trái lại, chế độ toàn trị, "cách mạng", và "xã hội chủ nghĩa" cộng sản không những đã cản trở sự phát triển của nước Việt Nam, đè ép nhân dân Việt Nam còn nặng hơn nữa, gây chống đối không những trong hàng ngũ nhân dân, mà ngay cả trong hàng ngũ của đảng viên, cán bộ kể cả những cán bộ đã có công lớn với chế độ. Số người này lại càng ngày càng đông, và sự chống đối của họ lại càng ngày càng mạnh và công khai.

Tình trạng trên đây đòi hỏi phải đặt vấn đề về sự ca tụng cộng sản trong những năm trước 1975. Cần xét lại quá trình của cộng sản ở Việt Nam, nhất là nay sự cứu xét có thể khách quan hơn, nhờ những tiết lộ xuất phát từ ngay trong hàng ngũ đảng cộng sản, của những người đã bỏ đảng, thoát ra ngoài vòng phong tỏa, đe dọa của công an, mật vụ cộng sản, nay được phát biểu tự do, hoặc cán bộ còn trong nước nhưng lên tiếng được nhờ họ chiếm điạ vị, chức vụ quan trọng.

Gần đây, các anh Nguyễn Gia Kiểng và Nguyễn Văn Thế đã có nói về một số khía cạnh của lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam. (Nguyễn Gia Kiểng, "Huyền Thoại Hồ Chí Minh", Thông Luận tháng 6, 2004, "Chủ nghĩa cộng sản đến Việt Nam như thế nào ?", Thông Luận tháng 7+8, 2004 ; Nguyễn Văn Thế : "Tại sao đảng cộng sản Việt Nam thắng ?", Thông Luận, tháng 6, 2004).

Có một khía cạnh nữa, rất căn bản ngày nay, cần được soi sáng, để cho mọi người thấy rõ sự thật, nhất là những người đã gia nhập Đảng Cộng Sản Việt Nam vì tin lời của lãnh tụ đảng. Đó là liên quan giữa ông Hồ Chí Minh, Đảng Cộng Sản Việt Nam và Đệ Tam Quốc tế. Họ đã nghe những lãnh tụ này quả quyết rằng những mục tiêu mà Đảng công bố là mục tiêu của họ - độc lập, tự do, hạnh phúc, công bằng xã hội, v.v. - nhưng ngày nay, những chủ trương, chính sách, hành động, xử trí của đảng mà họ được mục kích lại trái ngược với những gì mà đảng đã hằng tuyên bố. Điều đã đưa họ vào tình trạng này là khi họ gia nhập hay ủng hộ Đảng Cộng Sản Việt Nam, họ không biết rõ rằng họ bị Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam kéo họ vào một tổ chức sẽ nuốt trôi họ, biến họ thành những công cụ của nó. Tổ chức đó là Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản (Komintern, hay Comintern).

Người cộng sản Việt Nam, một công cụ của Liên Xô

Đệ Tam Quốc Tế được thành lập năm 1919. Nó là con đẻ của Lênin. Ông này, sau khi cướp được chính quyền ở Nga, mà ông ta hoàn toàn chi phối qua một đảng "bôn sê vích", muốn có một tổ chức tương tự bao trùm toàn cầu để ông ta có thể chi phối cả toàn cầu. Theo quan niệm của ông, đảng "bôn sê vích" phải là một đảng tổ chức theo lối quân đội, với kỷ luật sắt, với một hệ thống chỉ huy chặt chẽ, và một bộ tư lệnh toàn quyền. Đệ Tam Quốc Tế phải là một đội binh cộng sản quốc tế.

Những điều kiện gia nhập có 21 điều kiện - được ấn định trong Đại hội thế giới của Đệ Tam Quốc Tế năm 1920. Đây là những điều lệ mà chắc là phần đông, nếu không nói chẳng có ai, trong đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam biết đến, khi gia nhập đảng. Nhưng những điều này đuơng nhiên đặt Đảng Cộng Sản Việt Nam dưới sự lệ thuộc hoàn toàn của Đệ Tam Quốc Tế, nghĩa là của Liên Xô, trên ba bình diện cơ chế, mục tiêu, và đường lối.

Trước hết, về mặt cơ chế, Đảng Cộng Sản Việt Nam phải chấp nhận nguyên tắc "tập trung dân chủ", về nội bộ của đảng, cũng như trong liên lạc với Đệ Tam Quốc Tế.

- Điều 12 nói : "Tất cả các đảng thuộc Đệ Tam Quốc Tế phải được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ".

- Điều 16 nói : "Tất cả các quuyết nghị của các Đại hội thế giới Đệ Tam Quốc Tế, cùng các quyết nghị của Ủy Ban Chấp Hành của Đệ Tam Quốc Tế, đều ràng buộc các đảng gia nhập Đệ Tam Quốc Tế".

- Điều 21 nói : "Đảng viên nào phủ nhận các điều kiện và cương lĩnh của Đệ Tam Quốc Tế sẽ bị loại ra khỏi đảng".

- Theo điều 17, các đảng thành phần của Đệ Tam Quốc Tế chỉ là những chi bộ của Đệ Tam Quốc Tế, vì Đệ Tam Quốc Tế "không phải là một tập hợp của những chi bộ quốc gia, mà là một tổ chức quốc tế thống nhất".

- Điều 13 nói rằng các quyết định của Ủy Ban Chấp Hành "có tính cách ép buộc đối với các chi bộ của Đệ Tam Quốc Tế và phải được thi hành mau chóng".

Ở Ủy Ban Chấp Hành Đệ Tam Quốc Tế (ECCI), trong số 10-12 ủy viên, mỗi đảng lớn được hai ghế, còn các đảng nhỏ không có ghế nào, chỉ có quyền được tham khảo. Liên Xô đương nhiên dành cho mình 5 ghế, cùng chức vị chủ tịch Ủy Ban Chấp Hành vì Liên Xô là quốc gia tiếp nhận tổ chức. Trên Ủy Ban Chấp Hành là một Chủ Tịch Đoàn (Presidium) mà quyền hành còn lớn hơn nữa. Người giữ chúc chủ tịch đoàn này luôn luôn là một người rất thân cận của tổng bí thư Liên Xô, (đến năm 1924 là Lênin, và sau đó là Stalin).

Sự lệ thuộc của các đảng cộng sản đối với Đệ Tam Quốc Tế được tăng cường thêm với điều 1 và điều 15. Theo điều 1, tuyên truyền và vận động phải có tính cách thực sự cộng sản, không đuợc mang tính cách quốc gia, và phải "phù hợp với chương trình và quyết định của Đệ Tam Quốc Tế". Theo điều 15, "các đảng phải lập chương trình thích ứng với điều kiện của nước và đúng với những nghị quyết của Đệ Tam Quốc Tế", nghĩa là chương trình của mỗi đảng phải được "một Đại hội của Đệ Tam Quốc Tế hay Ban Chấp Hành chấp thuận".

Năm 1928, Nội quy Đệ Tam Quốc Tế lại có thêm một điều, điều 29, buộc Ủy Ban Chấp Hành Trung Ương của mỗi đảng phải trình lên ECCI biên bản và phúc trình về công việc của đảng đó, và phải được ECCI chấp thuận trước khi đảng đó họp đại hội.

Về hệ thống chỉ huy, theo điều 30 của Nội quy 1928, các cán bộ lãnh đạo của một đảng chỉ được từ chức nếu được phép của ECCI ; sự chấp thuận của Ủy Ban Chấp Hành Trung Ương của Đảng đó không đủ. Về cơ cấu và phương pháp làm việc của các đảng hội viên thì Đệ Tam Quốc Tế nói rõ rằng "mỗi đảng cộng sản phải lệ thuộc sự lãnh đạo của Đệ Tam Quốc Tế” và “các chỉ thị và quyết định của Đệ Tam Quốc Tế ràng buộc các đảng và, tất nhiên mỗi đảng viên của các đảng đó". Hơn nữa, "Ủy Ban Chấp Hành Trung Ương của một đảng chịu trách nhiệm với Đại hội của Đảng và ECCI". Để kiểm soát chặt chẽ hơn nữa, thỉnh thoảng Đệ Tam Quốc Tế gởi "phái viên" đi dự Đại hội của các đảng.

Theo điều 9 của Nội lệ của ECCI năm 1928, liên hệ giữa các đảng hội viên và các cơ quan trung ương của Đệ Tam Quốc Tế theo nguyên tắc thống nhất và kỷ luật vô sản. ECCI là thượng cấp và các đảng là thuộc cấp, chớ không bình đẳng. ECCI có quyền đòi một đảng hội viên trục xuất một nhóm hay một đảng viên vi phạm kỷ luật, hoặc trục xuất một đảng vi phạm quyết định của Đai hội Đệ Tam Quốc Tế.

Phải từ bỏ tinh thần quốc gia

Theo những điều kiện trên đây, một người Việt gia nhập Đảng Cộng Sản Việt Nam đương nhiên mất hết quyền quyết định về vận mạng Việt Nam, hay của chính mình ! Và từ lúc thành lập và tự nhận là một bộ phận của Đệ Tam Quốc Tế, năm 1930, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã phải từ bỏ một số chủ trương và tuân theo một số chủ trương khác.

Trước hết, về mục tiêu, chủ tịch Zinoviev nói rằng Đệ Tam Quốc Tế là "một đảng duy nhất, với chi bộ ở các quốc gia". Lênin giải thích rằng Đệ Tam Quốc Tế là "một đội quân vô sản quốc tế" mà nhiệm vụ là "thực hiện cách mạng vô sản quốc tế, thiết lập một Cộng Hòa Sô Viết Quốc Tế". Kamenev, một viên chức cao cấp của tổ chức, nói : cần có một ban tham mưu quốc tế để lãnh đạo đội quân cách mạng quốc tế này, và "Đệ Tam Quốc tế là Ban Tổng Tham Mưu của đội quân này".

Kế đến, đảng đó phải từ bỏ những quan điểm cải lương, hòa bình, và quốc gia. Theo điều 2 của Quy chế Đệ Tam Quốc Tế, tổ chức nào xin gia nhập Đệ Tam Quốc Tế "phải loại trừ tất cả những người có quan điểm cải lương và "đứng giữa" và thay thế họ bằng những người cộng sản". Theo điều 17, Đệ Tam Quốc Tế "cương quyết tuyên chiến với toàn thể thế giớí trưởng giả (bourgeois), và tất cả các đảng dân chủ xã hội". Và theo điều 6, một đảng xin gia nhập Đệ Tam Quốc Tế phải "khước từ mọi tinh thần ái quốc, và cả tinh thần chuộng hòa bình về mặt xã hội". Người cộng sản phải từ chối "dân chủ tiểu tư sản" và phương thức không cách mạng (không bạo động).

Một khi đã thâu nhận chủ thuyết Lênin, Đảng Cộng Sản Việt Nam phải loại bỏ tất cả các tư tưởng cải lương, chuộng hòa bình, tinh thần quốc gia, chấp nhận bạo động và độc tài vô sản.

Áp dụng bạo lực là một trong những chủ trương chính của Lênin. (Quan điểm này đã được ông ta trình bày rất rõ ràng trong tác phẩm Quốc Gia Và Cách Mạng). "Độc tài vô sản" được ông ta định nghĩa là "sử dụng bạo lực không chấp nhận một giới hạn nào cả, bất chấp tất cả các luật lệ". Về tinh thần quốc gia và tinh thần quốc tế, Lênin gạt bỏ tinh thần quốc gia, cho đó là môt quan niệm của giới truởng giả (bourgeois), và người cộng sản chỉ biết có một loại tinh thần quốc tế, đó là "chung sức với các người cộng sản khác để chuẩn bị, tuyên truyền, và gia tốc thực hiện cách mạng vô sản quốc tế". Ông ta kêu gọi những người cộng sản trên khắp thế giới "tiếp tay với Liên Xô tổ chức một đạo quân thống nhứt để thực hiện cuộc cách mạng vô sản thế giới và thiết lập một Cộng Hòa Sô Viết toàn cầu". Lênin đòi hỏi người cộng sản phải tuyệt đối trọng kỷ luật. Vi phạm kỷ luật là bội phản giới vô sản. Ông ta nói : "không tuân kỷ luật là giải giới vô sản... người nào vi phạm một tý ty kỷ luật sắt của đảng vô sản là... tiếp tay cho giới trưởng giả chống vô sản".

Hình thức dân tộc, nội dung quốc tế

Trên đây là phần tư tưởng, chủ trương, đường lối, chiến lược và tổ chức. Về phương diện chiến thuật, phương thức cách mạng, thì các cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã được nghe nhiều, và được huấn luyện theo đó. Chiến thuật, đặc biệt là chiến thuật cướp chính quyền có thể nói là phần quan trọng nhứt trong chủ nghĩa Lênin; đó là môn sở trường nhất của Lênin. Nó cũng là môn sở trường nhất của Hồ Chí Minh, người được công nhận là một đệ tử xuất sắc nhứt của Lênin. Và ông Hồ đã truyền lại những mánh khóe "cách mạng" cho đàn em trong Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Những giáo huấn chính của Lênin về lãnh vực này được trình bày trong tác phẩm "Cộng sản tả khuynh, căn bệnh của cộng sản ấu trĩ". Trong tác phẩm này Lênin nói về những phương thức, thủ đoạn, xảo quyệt, để nắm bá quyền trong các tổ chức, và cướp chính quyền. Các đảng viên cán bộ Đảng Cộng Sản Việt Nam chắc được học nhiều, nghe nhiều về những điều này, tưởng không cần lặp lại ở đây. Chỉ có ba điều cần nhấn mạnh.


Điều thứ nhất là sự sử dụng bạo lực. Lênin dạy đàn em phải sử dụng bạo lực triệt để, và chỉ có bạo lực mới giải quyết mọi vấn đề. Đó là "bạo lực cách mạng".

Điều thứ nhì là quan niệm cộng sản về đạo đức. Lênin dạy đàn em rằng đạo đức của người cộng sản là có thể làm bất cứ điều gì, miễn là có lợi cho đảng cộng sản.

Điều thứ ba, căn bản nhất, là thủ đoạn mang mặt nạ, lường gạt kẻ khả tín, thực hiện cách mạng thế giới qua nhiều giai đoạn, nhưng thủ đoạn này rất tế nhị, ít người thấy được rõ. Đó là : "chiến lược không thay đổi, nhưng chiến thuật thì thay đổi hoài hoài". Đặc biệt là phải áp dụng những hình thức khác nhau, để đánh lạc hướng địch nhân, mà ngay cả những người đồng minh, hay những người theo mình không phải vì họ thích chủ nghĩa cộng sản, làm cho họ không thấy được mình đang thực sự làm gì, dẫn họ đi đâu.


Thủ đoạn trên đây được ghi trong một văn kiện rất dài nói về "chính sách mới" của đảng, tháng 10, năm 1936 :

"Đảng Cộng Sản Đông Dương là chi bộ của Quốc Tế Cộng Sản, chiến lược cuối cùng của Đảng tức là chiến lược của Quốc Tế Cộng Sản...

Theo đúng chiến lược của Quốc Tế Cộng Sản thì chiến lược của Đảng Cộng Sản Đông Dương là làm cách mệnh dân quyền... để dự bị điều kiện đi tới cách mạng xã hội chủ nghĩa, đó là mục đích cuối cùng của cách mệnh trong giai đoạn này... Cần nhắc lại rằng chiến lược của Đảng không thay đổi, còn chiến sách là một thứ mưu kế để hoạt động cần phải sửa đổi luôn...

Chúng ta theo chủ nghĩa quốc tế, không phải theo chủ nghĩa quốc gia... chúng ta phải nâng cao tinh thần tranh đấu dân tộc giải phóng mật thiết liên kết với quyền lợi của quần chúng lao động, nghĩa là hình thức thì dân tộc mà nội dung thì quốc tế" [tác giả nhấn mạnh].

Câu chót này trích hầu như nguyên văn của một câu trong Tuyên Ngôn Của Đảng Cộng Sản : "Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung, không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh dân tộc".

Đây là một đề tài mà các cán bộ, đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam đã hăng say tranh đấu và hy sinh trong mấy chục năm qua nay cần suy ngẫm, và tự hỏi : "Mình đã giết biết bao nhiêu đồng bào, phá hủy biết bao nhiêu tài sản, để làm gì, cho ai ?".


Tôn Thất Thiện (Ottawa, 11-2004)
(Theo Web Thông Luận)

- UE: NQ1481 kết án CNCS là tội ác chống nhân loại (...
- PHÊ BÌNH “ TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN” MỘT BẢN T...

- Khác biệt giữa chủ nghĩa Mác Lê Nin (xhcn khoa học) và chế độ tự do dân chủ thật sự
- Những điều sai lầm của Đảng Cộng Sản Việt Nam
- Juillet 1920: Conditions d'admission des Partis dans l'Internationale Communiste
- Hồi ký của một Việt Cộng (1)
- Tai hoạ của Chủ nghĩa cộng sản (1) (2) (3)